Hôm nay (27/9) là ngày kỉ niệm Google tròn 14t, nào chúng ta cùng xem lại quá trình lịch sử của gã khổng lồ Google nhé... Google đã được "thai nghén" như thế nào và có một "tuổi thơ" ra sao khi "bố mẹ" của nó - hai nhà sáng lập - ban đầu có vẻ "không ưa nhau". Larry nghĩ Sergey kiêu ngạo. Sergey nghĩ Larry khó chịu. Nhưng mối ám ảnh về những đường liên kết (link) lại đưa họ đến với nhau, cùng sáng lập ra một tập đoàn tìm kiếm nổi tiếng.Hai tư tưởng lớn gặp nhau:Tất cả bắt đầu bằng một cuộc tranh cãi. Lần đầu tiên gặp
Larry Page vào mùa hè 1995,
Sergey Brin là một sinh viên năm thứ 2 khoa Khoa học máy tính tại Đại học
Stanford. Bản chất thích đàn đúm, giao du,
Brin đã xung phong làm "sinh viên tình nguyện", giúp đỡ các sinh viên năm thứ nhất trong quá trình nhập học.
Page, một sinh viên kỹ thuật của trường Đại học
Michigan, lọt vào nhóm của
Brin.
"Ấn tượng ban đầu" không tốt tí nào. Hai người liên tục cãi nhau, tranh luận, về nhiều vấn đề, trong đó có giá trị của việc quy hoạch đô thị. "Brin sống rất xã hội, giỏi giao tiếp, cậu ấy thích gặp gỡ mọi người",
Page nhớ lại, trái ngược với tính trầm lặng, ít nói của
Page. "Tôi nghĩ cậu ta thật ngạo mạn. Cậu ta có những ý kiến rất mạnh mẽ về mọi thứ".
"Cả hai chúng tôi đều nhận thấy người kia kiêu căng",
Brin phản pháo khi được biết về phản ứng của
Page. "Nhưng chúng tôi cùng nói đó chỉ là đùa cợt. Rõ ràng, chúng tôi đã dành nhiều thời gian nói chuyện với nhau, vì thế mới có sản phẩm chung. Chúng tôi luôn đùa cợt để mọi thứ tiến lên". Lẽ ra
Page và
Brin đã "choảng" nhau, nhưng cả hai đều cùng làm cho mũi kiếm của nhau sắc bén hơn mà thôi.
Bắt đầu từ bài luận văn của Page Mấy tháng sau,
Page bắt đầu tìm kiếm đề tài cho bài luận văn của mình. Đây là một quyết định quan trọng, khi
Page được bố - là một giáo sư khoa học máy tính ở
Michigan State, nói rằng bài luận văn có thể hình thành nên toàn bộ sự nghiệp của người viết.
Page đã chọn ra khoảng 10 ý kiến và nhận thấy bị thu hút bởi
World Wide Web.
Page nhận thấy
web hấp dẫn nhờ các tính chất toán học của nó. Mỗi máy tính đều có một điểm nút (node) và mỗi đường liên kết trên một trang web lại có một kết nối giữa các điểm nút - đây là một cấu trúc đồ thị khổng lồ.
World Wide Web,
Page lý luận, có thể là một đồ thị lớn nhất trên trái đất và nó đang phát triển ở tốc độ quá nhanh.
Page bắt đầu suy nghĩ về các đường liên kết cấu trúc của
Web.
Tháng 1/1996,
Page bắt tay tiến hành dự án công cụ tìm kiếm đầu tiên mang tên
BackRub. Lúc đó,
Web đã có khoảng
10 triệu tài liệu và một số lượng các đường link (không biết bao nhiêu) liên kết giữa những tài liệu này. Chưa biết chính xác sẽ đi tới đâu,
Page bắt đầu xây dựng dự án riêng của mình.
Sự phức tạp và quy mô của dự án
BackRub đã thu hút
Brin. Là một người thông minh từng tham gia nhiều dự án,
Brin phát hiện ra tiền đề nằm sau
BackRub thật quyến rũ, hấp dẫn. "Tôi đã nói chuyện với nhiều nhóm nghiên cứu" ở trường học,
Brin nhớ lại, "và đây là dự án hấp dẫn nhất mà tôi thích làm, vừa vì nó liên quan đến
Web - đại diện cho kiến thức con người - vừa vì tôi thích
Page".
Tháng 3/1996,
Page trình diễn dự án của anh với chỉ 1 trang duy nhất - là trang chủ - tại trường
Stanford. Rất may, giờ đây
Page đã làm việc với
Brin.
Brin là con trai của một nhà khoa học
NASA và một giáo sư toán học của trường Đại học
Maryland. Anh sinh ra ở
Nga, di cư đến
Mỹ cùng với gia đình năm 6 tuổi. Khi
Brin còn là một học sinh phổ thông, anh được công nhận là một thần đồng toán học. Anh rời khỏi trường trung học sớm 1 năm để vào học trường Đại học
Michigan. Khi tốt nghiệp, anh ngay lập tức đăng ký vào trường
Stanford. Ở đây, với tài năng của mình,
Brin được phép "không phải làm gì". "Thật tuyệt",
Brin từng nói, đặc quyền này cho phép
Brin tham gia vào các lớp học "phi khoa học" như chèo thuyền, bơi, lặn. Và anh tập trung năng lực thông minh của mình vào những dự án hấp dẫn hơn là vào việc học tập ở trường.
Cùng nhau,
Page và
Brin tạo ra một hệ thống xếp hạng (ranking), ban thưởng cho các
website có nhiều đường liên kết đến và trừng phạt những trang không có đường liên kết. Chẳng hạn, nhiều trang web liên kết đến
IBM.com. Những đường link này có thể của một đối tác kinh doanh trong ngành công nghệ, hay một nhà lập trình thiếu niên vừa mua chiếc
ThinkPad nhân lễ Giáng Sinh. Ở góc độ con người, đối tác kinh doanh là một liên kết quan trọng với vị trí
IBM trên thế giới. Nhưng làm thế nào một thuật toán hiểu được điều đó?
Đột phá của
Page và
Brin là tạo ra một thuật toán - tên là
PageRank. Trở lại ví dụ trên, giả sử chỉ một số trang link đến trang của cậu bé thiếu niên. Ngược lại, có hàng ngàn trang link đến
Intel và những trang này, tính trung bình, lại có hàng ngàn trang khác link đến họ. Lúc này,
PageRank sẽ xếp trang của nhà lập trình thiếu niên ít quan trọng hơn trang web của
Intel.
Dần dà,
BackRub trở thành một công cụ tìm kiếm.
Page và
Brin nhận thấy các kết quả của
BackRub tốt hơn hẳn so với các công cụ tìm kiếm lúc bấy giờ - là
AltaVista và
Excite, luôn đưa lại kết quả không liên quan. "Những công cụ tìm kiếm
AltaVista và
Excite chỉ để ý đến chữ (text), mà không để ý đến tín hiệu khác",
Page nhớ lại. Tín hiệu khác chính là
PageRank. Lúc này,
Page và
Brin biết họ cần phải tiến tới một cái gì to lớn hơn. Hai nhà sáng lập đã đặt tên mới cho công cụ tìm kiếm của họ là
Google. Họ công bố phiên bản
Google đầu tiên trên trang web của trường Đại học
Stanford vào tháng 8/1996 - 1 năm sau khi 2 người gặp nhau.
"Tuổi thơ" Google phải đi vay, mượn, ở nhờ Google trở nên nổi tiếng trong trường
Stanford. Như được tiếp thêm năng lượng,
Brin và
Page bắt đầu nâng cấp dịch vụ. Họ nhanh chóng nhận ra các công cụ tìm kiếm cần phải có lượng máy tính lớn. Không có tiền để mua máy mới, họ đã xin, mượn một ổ cứng từ phòng thí nghiệm mạng, một chiếc
CPU thừa của khoa. Dùng căn phòng ngủ tập thể trong trường đại học của
Page làm phòng thí nghiệm máy và sau khi chất đầy thiết bị trong phòng ngủ của
Page, họ lại chuyển phòng ngủ của
Brin thành một văn phòng và trung tâm lập trình. Họ nối mọi thứ của mình vào mạng lưới băng rộng của trường Đại học
Stanford. Lúc đó, dự án của hai người "ngốn" gần nửa băng tần của toàn bộ mạng
Stanford, trong khi
Stanford là một trong những trường được nối mạng tốt nhất trên hành tinh. Vào mùa thu năm 1996, dự án của họ liên tục khiến kết nối
Internet của
Stanford bị đứt. Thực tế, công cụ tìm kiếm của hai người đã dùng trang web của trường Đại học
Stanford với tên miền
google.stanford.edu.
"Chúng tôi may mắn đã được nhiều người ở
Stanford ủng hộ",
Page nhớ lại. "Họ không hề khiển trách gì về những nguồn tài nguyên mà chúng tôi sử dụng quá nhiều".
Giáo sư
Jon Kleinberg của trường Đại học
Cornell rất quan tâm đến tác phẩm của
Page và
Brin. Ông đã khuyên Page công bố nghiên cứu về
PageRank trên một tờ báo khoa học. Nhưng
Page nói anh ngại công bố, xuất bản. Lý do là "anh sợ một ai đó có thể ăn cắp ý tưởng của anh và với
PageRank,
Page cảm tưởng như anh đang có một công thức bí mật",
Kleinberg nói.
Mặt khác,
Page và
Brin cũng muốn trải qua những gian khổ của việc thành lập và điều hành một công ty. Tuy vậy, cuối cùng họ cũng đã công bố tác phẩm của mình và tên miền
google.com được đăng ký vào ngày 15/9/1997, theo trang web bách khoa toàn thư
wikipedia. Hai người chính thức thành lập công ty
Google Inc vào ngày 7/9/1998 tại gara của một người bạn ở
California. Văn phòng của họ còn có cả một chiếc máy giặt, một máy sấy khô và một chiếc bồn tắm nước nóng. Ngoài ra, văn phòng còn có chỗ đỗ xe cho nhân viên đầu tiên mà
Google tuyển dụng:
Craig Silverstein - chính là giám đốc công nghệ hiện nay của
Google.
Lúc đó, trang web
Google.com, vẫn đang là bản beta, nhận khoảng
10.000 câu lệnh tìm kiếm mỗi ngày. Báo chí bắt đầu để ý đến trang web mới tinh luôn đưa ra những kết quả tìm kiếm liên quan với chủ đề. Các bài báo tán dương
Google xuất hiện trên
USA Today và
Le Monde. Tháng 12 năm đó, tạp chí
PC Magazine gọi
Google là một trong số top
100 website và công cụ tìm kiếm của họ trong năm 1998. Ngày 21/9/1999, nhãn hiệu beta mới được gỡ khỏi
Google.com.
Google dần vươn ra thế giới.
Tên "
Google" xuất phát từ một lỗi chính tả của từ "
Googol", nghĩa là con số 1 được theo sau 100 con số 0. Ngày nay, "
google" đã trở thành một động từ. Trong từ điển
Oxford English Dictionary năm 2006, từ "
google" được định nghĩa là "dùng công cụ tìm kiếm
Google để lấy thông tin trên mạng
Internet".
Sự phát triểnKhi thị trường ban đầu của công ty là trên thị trường web,
Google đã bắt đầu thử nghiệm ở một số thị trường khác, ví dụ như Phát thanh hoặc Xuất bản. Ngày 17-1-2006,
Google công bố rằng công ty đã mua lại công ty quảng cáo phát thanh
dMarc, công ty đã sử dụng một hệ thống tự động, cho phép các công ty quảng cáo trên radio. Điều này sẽ giúp
Google kết hợp 2 kênh quảng cáo truyền thông là
Internet và
Radio, với khả năng của
Google, nhắm thẳng vào tâm lý khách hàng.
Google cũng bắt đầu thử nghiệm bán quảng cáo trên các kênh quảng cáo
offline của công ty, như trên báo và tạp chí, với các quảng cáo được lựa chon trên
Chicago-Sun Times. Họ đã lấp được một chỗ trống không bán được trên tờ báo mà trước đấy thường được dùng vào việc quảng cáo nhà.
Google được đưa vào danh sách
500 S&P index ngày 30 tháng 3 năm 2006, chiếm vị trí của
Burlington Resources, một nhà sản xuất dầu chính ở
Houston.
Các thương vụ mua bánTừ năm 2001,
Google đã mua được nhiều công ty nhỏ mới thành lập, thường là công ty có nhiều sản phẩm và đội ngũ nhân viên tốt. Một trong những công ty mà
Google mua lại sớm nhất là
Pyra Labs. Họ chính là những người sáng tạo ra
Blogger, một nền tảng của việc xuất bản
weblog, giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1999.
Pyra Labs ban đầu được lập ra bởi
Evan Williams, khi anh này rời
Google vào năm 2004. Đầu năm 2006,
Google mua lại
Upstartle, một công ty chịu trách nhiệm xử lý từ ngữ trên mạng,
Writely. Công nghệ của sản phẩm này rốt cuộc đã được
Google sử dụng để tạo ra
Google Docs & Spreadsheets.
Tháng 2 năm 2006, công ty phần mềm
Adaptive Path bán
Measure Map, một ứng dụng thống kê
weblog cho
Google.
Cuối năm 2006,
Google mua lại trang web chia sẻ video trực tuyến
YouTube với giá
1,65 tỷ USD bằng cổ phần. Không lâu sau, 31 tháng 10 năm 2006,
Google công bố họ đã mua lại
Jotspot, một nhà phát triển của công nghệ
wiki cho các website cộng đồng.
Ngày 13 tháng 4 năm 2007,
Google đạt được thỏa thuận mua lại
DoubleClick.
Google đã đồng ý mua lại công ty này với giá
3,2 tỷ USD. Ngày 15 tháng 8 năm 2011, Google tuyên bố sẽ mua
Motorola Mobility với giá
12,5 tỷ USD.
Sự cộng tácNăm 2005,
Google gia nhập hiệp hội với các công ty và tổ chức chính phủ khác để phát triển phần mềm và dịch vụ.
Google công bố mối cộng tác với
NASA Ames Reseach Center, xây dựng đến 1 triệu phòng chuyên trách và làm việc trong đề án nghiên cứu bao gồm Quản lý dữ liệu trên diện rộng, công nghệ nano, sắp xếp công việc sử dụng máy tính…
Google cũng tham gia cộng tác với
Sun Microsystem để chia sẻ và phân loại các công nghệ của nhau. Công ty cũng tham gia cộng tác với
American Online của
Time Warner để cải tiến dịch vụ video trực tuyến. Năm 2007,
Google và
New Corp.’s Fox Interactive Media tham gia vào bản hợp đồng trị giá
900 triệu USD để phục vụ tìm kiếm vào quảng cáo trên trang mạng xã hội nổi tiếng,
Myspace. Ngày 22 tháng 3 năm 2010,
Google rời khỏi thị trường khổng lồ
Trung Quốc (tuy nhiên, các dịch vụ bản đồ trực tuyến và âm nhạc vẫn tiếp tục hoạt động).
Google đóng cửa website
google.cn, và thay vào đó chuyển tới trang
google.com.hk để tránh bị kiểm duyệt nội dung. Nguyên nhân chính được cho là vì bất đồng quan điểm với chính quyền
Trung Quốc. Ngày 30 tháng 3 năm 2010, mọi cách tìm kiếm bằng
google (không chỉ g
oogle.cn mà còn các ngôn ngữ khác như
google.co.jp.
Google.com.au,..), bao gồm cả
Google Mobile, đều bị chặn ở
Trung Quốc. Hai dịch vụ như
Google Mail và
Google Maps không bị ảnh hưởng. Lệnh cấm được dỡ bỏ vào ngày hôm sau.